Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng phục hồi chức năng vận động ở trẻ viêm não Nhật Bản sau giai đoạn cấp bằng điện trường châm kết hợp xoa bóp bấm huyệt. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp can thiệp lâm sàng, so sánh trước và sau điều trị, có nhóm chứng trên 96 người bệnh được chẩn đoán xác định là viêm não Nhật Bản được điều trị ổn định huyết động và các dấu hiệu sinh tồn cơ bản có tổn thương chức năng vận động với các tiêu chuẩn của y học hiện đại (YHHĐ) và Y học cổ truyền (YHCT) Bệnh viện Châm cứu Trung ương từ tháng 12/2019 đến hết tháng 8/2020. Các bệnh người bệnh được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm: nhóm nghiên cứu (NNC), nhóm đối chứng (NĐC). Phác đồ điều trị: NNC là điện trường châm theo phác đồ (30 phút/lần), sau đó xoa bóp bấm huyệt theo phác đồ (30 phút/lần), liệu trình 1 lần/ngày vào 8 giờ - 11 giờ, trong 25 ngày liên tục; NĐC: điện hào châm theo phác đồ huyệt như trên (30 phút/lần), sau đó xoa bóp bấm huyệt theo phác đồ (30 phút/lần), liệu trình 1 lần/ngày vào 8 giờ - 11 giờ, trong 25 ngày liên tục. Kết quả nghiên cứu được lượng giá một cách đơn giản dựa trên thăm khám lâm sàng người bệnh trong quá trình điều trị kết hợp với sự phát triển theo sinh lý của trẻ (vận động thô); một số chỉ số cận lâm sàng được ghi nhận bằng sự thay đổi trước - sau can thiệp dựa trên đo đạc bằng máy (công thức máu, sinh hóa máu). Số liệu sau thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: Sau 25 ngày điều trị sự thay đổi trương lực cơ và mức độc co cứng cơ đầu cải thiện có ý nghĩa thống kê, kết quả của NNC tốt hơn NĐC. Phản xạ gân xương có sự khác biệt giữa trước và sau điều trị nhưng không có ý nghĩa thống kê. Không có tác dụng không mong muốn nào trong quá trình điều trị.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm não Nhật Bản là một bệnh gây ra bởi virus viêm não Nhật Bản. Việt Nam là một trong những quốc gia có nguy cơ cao với virus viêm não Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á [1]. Virus viêm não Nhật Bản được truyền qua muỗi đến một loạt các vật chủ có xương sống, bao gồm cả chim và động vật có vú. Trong số 30.000-50.000 trường hợp nhiễm toàn cầu mỗi năm, khoảng 20-30% người bệnh tử vong và 30-50% số người sống sót để lại những di chứng thần kinh quan trọng. Tử vong do viêm não Nhật Bản thường xảy ra trong vòng 7 ngày đầu khi người bệnh có hôn mê sâu, co giật và những triệu chứng tổn thương não nặng nề. Nếu qua được giai đoạn này, các triệu chứng giảm dần, tuy nhiên có đến 50% số người bệnh để lại di chứng thần kinh và tâm thần. Do đó, việc điều trị phục hồi chức năng sớm là một công việc hết sức quan trọng. Y học cổ truyền mô tả bệnh lý này trong phạm vi “Ôn bệnh”, giai đoạn di chứng với liệt vận động trong “Nuy chứng” với phương pháp điều trị cơ bản là chỉ kinh phong, trừ đàm thông lạc, khai khiếu tỉnh thần [2]. Để đạt được hiệu quả điều khí mạnh, trường châm được sử dụng nhằm thay thế cho hào châm thông thường với đặc thù kim châm cứu dài 10-30cm và có đường kính khoảng 5mm [3]. Kết hợp cùng xoa bóp bấm huyệt, phương pháp này đã dần chứng minh được hiệu quả nhất định, đặc biệt trong cải thiện chức năng vận động ở người bệnh viêm não do virus viêm não Nhật Bản sau giai đoạn cấp. Xuất phát từ thực tiễn lâm sàng chúng tôi thức hiện nghiên cứu này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp can thiệp lâm sàng, so sánh trước và sau điều trị, có nhóm chứng, trên 96 người bệnh được chẩn đoán viêm não Nhật Bản sau giai đoạn cấp được điều trị ổn định huyết động và các dấu hiệu sinh tồn cơ bản có tổn thương chức năng vận động với tiêu chuẩn lựa chọn là: y học hiện đại (liệt hoàn toàn hoặc không hoàn toàn tứ chi); y học cổ truyền (Bệnh nhân thuộc một trong hai thể bệnh của y học cổ truyền là thể âm hư hoặc khí huyết hư); được bố/ mẹ/ người giám hộ hợp pháp chấp thuận cho tham gia nghiên cứu; tuân thủ quy trình điều trị. Tiêu chuân loại trừ là: viêm não sau giai đoạn cấp không do viêm não Nhật Bản; tự ý sử dụng thêm thuốc hoặc kết hợp thêm một phương pháp điều trị khác hoặc tự ý dừng điều trị/ bỏ điều trị; có tổn thương vận động khác kèm theo do bệnh lý về cơ hoặc rối loạn điện giải, hoặc bệnh lý cơ xương khớp tự miễn; có bệnh lý bẩm sinh hoặc di truyền liên quan đến thực thể vận động, biến dạng gấp cố định, viêm khớp, phì đại cơ; người bệnh còn các biểu hiện di chứng nặng của tổn thương sau viêm não.
Quy trình nghiên cứu: Bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm não Nhật Bản sau giai đoạn cấp đã ổn định huyết động, có chỉ định chuyển viện/ chuyển tuyến về điều trị tại Bệnh viện Châm cứu Trung ương. Tiến hành điều trị theo phác đồ: NNC gồm 48 bệnh nhân được điện trường châm theo phác đồ (30 phút/lần), sau đó xoa bóp bấm huyệt theo phác đồ (30 phút/lần), liệu trình 1 lần/ngày vào 8 giờ - 11 giờ, trong 25 ngày liên tục; NĐC gồm 48 người bệnh điện hào châm theo phác đồ huyệt như trên (30 phút/lần), sau đó xoa bóp bấm huyệt theo phác đồ (30 phút/lần), liệu trình 1 lần/ngày vào 8 giờ - 11 giờ, trong 25 ngày liên tục. Theo dõi các chỉ tiêu nghiên cứu. Thời gian nghiên cứu: từ 12/2019 đến hết tháng 8/2020 tại Bệnh viện Châm cứu Trung ương.
Phương pháp đánh giá kết quả: Sự cải thiện chức năng vận động ở trẻ nhỏ khó hơn ở người lớn do trẻ chưa thể tự chăm sóc bản thân hoặc tự chủ động trong các sinh hoạt thường ngày. Chúng tôi đề xuất phương pháp đánh giá kết quả sau can thiệp dựa trên các tiêu chí có thể lượng giá được một cách đơn giản dựa trên thăm khám lâm sàng người bệnh trong quá trình điều trị kết hợp với sự phát triển theo sinh lý của trẻ (vận động thô); một số chỉ số cận lâm sàng được ghi nhận bằng sự thay đổi trước-sau can thiệp dựa trên đo đạc bằng máy (công thức máu, sinh hóa máu).
Số liệu sau thu thập được phân tích và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Sau khi thu thập số liệu của NNC và NĐC trên 96 người bệnh, chúng tôi nhận thấy các bệnh nhân có một số đặc điểm chung: Trong độ tuổi từ 3 đến dưới 5 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 29,2%; thấp nhất ở nhóm trên 7 tuổi (20,8%). Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 2 tuổi và lớn nhất là 14 tuổi. Nam cao hơn nữ. Tỷ lệ người bệnh ở khu vực nông thôn cao nhiều hơn ở khu vực miền núi và thành thị. Bệnh lý hô hấp kèm theo chiếm tỷ lệ cao. Người bệnh có tiêm phòng viêm não Nhật Bản đạt 52,1% ở NNC và 62,5% ở NĐC. Tỷ lệ liệt cứng cao hơn liệt mềm. Có 22,9% người bệnh đã xuất hiện teo cơ. Trước mắc viêm não Nhật Bản, đa số người bệnh phát triển vận động thô đúng giai đoạn theo tuổi. Sau mắc viêm não, có một tỷ lệ lớn trẻ dưới 3 tuổi đều không giữ vững được cổ, khó đứng thẳng khi xốc nách hoặc nhún chân. Một số người bệnh trước đó đã phát triển qua giai đoạn lẫy, bò, ngồi, đứng cũng mất khả năng này. Tỷ lệ người bệnh có dáng đi bất thường và không đứng vững được chiếm tỷ lệ cao ở cả NNC và NĐC. Người bệnh có tình trạng rối loạn ngôn ngữ kèm theo trước điều trị chiếm tỷ lệ lớn nhất. Một số rối loạn khác kèm theo là rối loạn ý thức, rối loạn thần kinh thực vật và rối loạn cơ tròn. Hầu hết người bệnh có tình trạng dinh dưỡng bình thường, tuy nhiên, trong số này có khoảng 20% số người bệnh có tình trạng rối loạn dinh dưỡng. Nặng nhất là 2 trường hợp có tình trạng suy kiệt tại thời điểm nhập viện.
Bảng 1. Sự thay đổi vận động thô
Tiêu chí đánh giá | Sau điều trị | % thay đổi | p | |||||
NNC | NĐC | NNC | NĐC | |||||
n | % | n | % | |||||
< 3 tuổi | Giữ vững cổ | 13 | 100 | 8 | 100 | ↑61,5 | ↑37,5 | < 0,05 |
Ngồi được | 11 | 84,6 | 3 | 37,5 | ↑18,2 | ↓57,1 | < 0,01 | |
Xốc nách nhún chân được | 13 | 100 | 2 | 25,0 | ↑62,5 | ↓66,7 | < 0,01 | |
Đứng được | 7 | 53,8 | 2 | 25,0 | ↑57,1 | ↓33,3 | < 0,01 | |
Đi chập chững | 1 | 7,7 | 0 | 0 | ↑7,7 | 0 | - | |
≥ 3 tuổi | Đứng vững | 35 | 100 | 21 | 52,5 | ↑57,1 | ↑57,1 | > 0,05 |
Dáng đi bình thường | 32 | 91,4 | 20 | 50,0 | ↑56,3 | ↑50,0 | > 0,05 | |
Chạy được | 2 | 5,7 | 0 | 0 | ↑5,7 | 0 | - |
Đối với vận động thô, đánh giá trên những tiêu chí cơ bản sau đối với người bệnh: khả năng giữ vững cổ, nhún chân, đứng thẳng khi xốc nách, lẫy, bò, ngồi, đứng, đi, chạy. Đối với từng nhóm người bệnh, do có những đặc thù khác nhau theo lứa tuổi và tình trạng tổn thương tại thời điểm nhập viện, chúng tôi tiến hành đánh giá chung các tiêu chí này và một số các tiêu chí khác dựa trên sự phát triển thể chất của trẻ so với những trẻ cùng tuổi. Trong phần đánh giá kết quả này, chúng tôi chia nhóm đối tượng người bệnh nghiên cứu thành 2 nhóm là nhóm dưới 3 tuổi và nhóm trên 3 tuổi. Đối với nhóm người bệnh dưới 3 tuổi, kết quả nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện tốt với mức tăng khả năng giữ vững cổ ở nhóm người bệnh nghiên cứu là 61,5% (cao hơn so với nhóm đối chứng là 37,5%). Các tiêu chí khác về khả năng ngồi vững, xốc nách nhún chân hay đứng được, đi chập chững, điện trường châm kết hợp xoa bóp bấm huyệt đều tỏ ra vượt trội hơn với số lượng người bệnh đạt kết quả tốt và mức độ cải thiện cao hơn. Tuy nhiên, đối với nhóm trẻ lớn trên 3 tuổi, tỷ lệ hiệu quả có phần xấp xỉ tương đương nhau ở các tiêu chí đánh giá về khả năng đứng vững, dáng đi bình thường và một số trẻ có thể chạy được mà không gặp khó khăn như thời điểm trước 25 ngày điều trị. Thực tế lâm sàng điều trị chúng tôi thấy rằng, mặc dù một số trẻ tại thời điểm nhập viện có thể đi được, chạy được nhưng dáng đi và các bước chạy còn giật cục, xiêu vẹo do chưa thăng bằng tốt. Do vậy, bên cạnh việc điện châm và xoa bóp bấm huyệt hàng ngày, chúng tôi cũng đồng thời hướng dẫn những trẻ đã có thể đứng vững và đi lại được cách đi đúng, cách thực hiện bước chân, chùng gối để trẻ tập luyện và tạo thành phản xạ mỗi khi thực hiện động tác mà tránh làm theo bản năng hoặc thôi thúc muốn đi, muốn chạy như các bạn đồng trang lứa. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi đây chính là tiền đề để trẻ có dáng đi đúng, chuẩn theo sinh lý giải phẫu, đồng thời không gây gù vẹo hoặc lệch trục chi, cột sống sau quá trình bị bệnh.
Bảng 2. Sự thay đổi cơ lực.
Đánh giá cơ lực
| NNC (n=48) | NĐC (n=48) | pNNC-NĐC | ||||||
D0 | D25 | D0 | D25 | ||||||
n | % | n | % | n | % | n | % | ||
Bậc 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | < 0,05 |
Bậc 1 | 1 | 2,1 | 0 | 0 | 2 | 4,1 | 0 | 0 | |
Bậc 2 | 18 | 37,5 | 0 | 0 | 20 | 41,7 | 0 | 0 | |
Bậc 3 | 26 | 54,1 | 1 | 2,1 | 23 | 47,9 | 3 | 6,3 | |
Bậc 4- | 3 | 6,3 | 12 | 25,0 | 3 | 6,3 | 15 | 31,3 | |
Bậc 4 | 0 | 0 | 14 | 29,2 | 0 | 0 | 16 | 33,3 | |
Bậc 4+ | 0 | 0 | 13 | 27,1 | 0 | 0 | 10 | 20,8 | |
Bậc 5 | 0 | 0 | 8 | 16,6 | 0 | 0 | 4 | 8,3 | |
pD0-D25 | < 0,05 | < 0,05 |
|
Một điều đặc biệt khác trong nghiên cứu của chúng tôi với một số tác giả đã nghiên cứu về tình trạng liệt vận động cũng như các phương pháp điều trị liệt vận động ở người bệnh viêm não nói chung và viêm não Nhật Bản nói riêng sau giai đoạn cấp là chúng tôi sử dụng thang điểm đánh giá cơ lực thay cho thang điểm độ liệt Henry. Về cơ bản, hai tiêu chí đánh giá này hoàn toàn không có sự khác biệt, mà độ liệt Henry chỉ thay đổi hơn là đánh giá 5 mức thay vì 6 mức như cơ lực, còn lại các tiêu chí đánh giá khá tương đồng. Tuy nhiên, đánh giá cơ lực theo 8 bậc từ 0 đến 5 (riêng bậc 4 có 4-, 4 và 4+), chúng tôi nhận thấy việc theo dõi từng biến đổi nhỏ trong cơ lực từng nhóm chi của bệnh nhân tốt hơn, từ đó góp phần tiên lượng tốt hơn. Bảng 3.9 thể hiện kết quả nghiên cứu sau 25 ngày về hiệu quả của điện trường châm so với điện hào châm đơn thuần có sự khác biệt khá rõ rệt. Tỷ lệ cải thiện tốt hơn cũng có xu hướng cao hơn ở nhóm được điện trường châm.
Bảng 3: Sự thay đổi mức độ co cứng cơ
Đánh giá co cứng cơ | NNC (n=48) | NĐC (n=48) | pNNC-NĐC | ||||||
D0 | D25 | D0 | D25 | ||||||
n | % | n | % | n | % | n | % | ||
0 | 13 | 27,1 | 7 | 14,5 | 17 | 35,3 | 13 | 27,1 | <0,05 |
1 | 2 | 4,2 | 15 | 31,3 | 2 | 4,2 | 6 | 12,5 | |
1+ | 7 | 14,5 | 13 | 27,1 | 3 | 6,3 | 10 | 20,8 | |
2 | 24 | 50,0 | 13 | 27,1 | 23 | 47,9 | 18 | 37,5 | |
3 | 1 | 2,1 | 0 | 0 | 2 | 4,2 | 1 | 2,1 | |
4 | 1 | 2,1 | 0 | 0 | 1 | 2,9 | 0 | 0 | |
pD0-D25 | < 0,05 | < 0,05 |
|
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ này khá cao bởi hầu hết người bệnh nhập viện đều đang trong tình trạng liệt cứng hoặc đôi khi có thể đánh giá kèm theo cả cứng khớp do người bệnh liệt vận động lâu ngày, các chi ở tư thế co cứng khó đánh giá được trương lực cơ và cơ lực. Sau 25 ngày điều trị, tình trạng này có sự cải thiện rõ rệt ở cả NNC và NĐC, đặc biệt là có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ co cứng giữa hai nhóm. Điều này một phần chứng minh hiệu quả của điện châm kết hợp xoa bóp bấm huyệt trong điều trị, đồng thời cũng chứng minh lý thuyết về điện châm kim&
Từ khóa
viêm não Nhật Bản,điện trường châm
Tài liệu tham khảo
- Susan L. Hills, Emmanuel B. Walter, Robert L. Atmar et al (2019). Japanese Encephalitis Vaccine: Recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices, MMWR Recomm Rep, 68(2), pg 1-33.
- Trường Đại học Y Hà Nội, Khoa Y học cổ truyền (2019). Nhi khoa Y học cổ truyền (Sách đào tạo Đại học và Sau đại học), Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
- Nguyễn Tài Thu (2012). Mãng châm chữa bệnh (Bộ sách châm cứu chữa bệnh), Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.
- Trần Thị Thu Hương (2019). Nguyên cứu căn nguyên, đặc điểm dịch tễ học lam sàng, cận lâm sàng và yếu tố tiên lượng bệnh viêm não cấp ở trẻ em Việt Nam, Luận văn tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
- Baruah, H. C., Biswas, D., Patgiri, D., & Mahanta, J. (2002). Clinical outcome and neurological sequelae in serologically confirmed cases of Japanese encephalitis patients in Assam, India. Indian pediatrics, 39(12), 1143-1148.
- Vũ Nam (2015). Chuyên đề Nhi khoa Y học cổ truyền, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.[36]
- Hồ Đặng Trung Nghĩa, Lê Thị Phượng, Nguyễn Thị Nguyệt Bình và cộng sự (2015). Đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng bệnh viêm não cấp tại khu vực phía nam Việt Nam, Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam, 1(9), tr 2-10.[37]
- Nguyễn Bá Quang (2004). Đánh giá tác dụng của điện mãng châm phục hồi chức năng vận động cho người bệnh viêm não Nhật Bản, Tạp chí Y học thực hành, 9(2004), tr 6-11.[38]
- Nguyễn Viết Thái (2011). Nghiên cứu biến đổi chức năng thần kinh, nội tiết dưới ảnh hưởng của điện châm trên bệnh nhân viêm não Nhật Bản sau giai đoạn cấp, Tạp chí Châm cứu Việt Nam, 4(2011), tr 17